NGHỀ ĐAN LÁT CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ Ở Y TÝ, LÀO CAI

“Nằm trên vùng đất biên giới của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, xã Y Tý không chỉ nổi tiếng với cảnh quan hùng vĩ mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Hà Nhì đen. Trong đó, nghề đan lát là một trong những nghề truyền thống lâu đời, gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây.”

Không đơn thuần là nghề thủ công để mưu sinh, đan lát với người Hà Nhì là di sản được truyền từ đời này sang đời khác, là nơi kết tinh trí tuệ, kỹ năng, sự tỉ mỉ và óc sáng tạo của những nghệ nhân bản địa. Mỗi sản phẩm đan lát không chỉ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, mà còn là kết quả của sự chắt lọc tinh túy trong từng công đoạn: từ việc chọn nguyên liệu, sơ chế, định hình đến kỹ thuật đan, tạo dáng và hoàn thiện. Qua từng đường nan, lối lạt, người Hà Nhì gửi gắm vào đó cả kinh nghiệm sống và niềm tự hào văn hóa.

Theo chia sẻ của ông Ly Hờ Suy – một nghệ nhân cao tuổi am hiểu sâu sắc nghề đan lát ở Y Tý – nguyên liệu làm nên các sản phẩm đan lát truyền thống của người Hà Nhì chủ yếu là tre, trúc và mây rừng. Mỗi loại nguyên liệu đều được chọn lựa và khai thác hết sức cẩn trọng: Tre và trúc có thể được trồng tại vườn nhà, nhưng cần chọn đúng thời điểm khai thác từ tháng 10 năm trước đến tháng 1-2 năm sau, khi cây ít nước, thân chắc, dễ sơ chế và bền; Mây rừng – gọi là “hót nghè già” trong tiếng Hà Nhì – là nguyên liệu quý hiếm và khó khai thác. Chỉ có 2 trong số 4 loại mây rừng có thể dùng làm lạt, nan đan vì có độ dẻo, dai cao. Việc tìm và khai thác mây thường mất 2 – 3 ngày đi rừng, phải chọn cây già, không sâu bệnh và thực hiện vào mùa khô để đảm bảo chất lượng.

Nguyên liệu sau khi khai thác cần được sơ chế ngay. Với tre, trúc – chỉ dùng phần cật tre và lớp nan thứ hai; phần bụng bỏ đi. Mây cũng phải chẻ nan và bảo quản công phu – được cuộn thành bó, đặt trên gác bếp để hong khô, tránh mối mọt, khi dùng thì ngâm nước một ngày cho mềm.

Quá trình làm ra một sản phẩm đan lát của người Hà Nhì đen là cả một chuỗi công việc đòi hỏi tính tỉ mỉ, công phu và hiểu biết sâu sắc: Khai thác và sơ chế nguyên liệu theo thời điểm mùa vụ, chọn đúng tuổi cây, đúng phần sử dụng; Tạo nan, tách lạt, cuốn sợi, bảo quản. Khi sử dụng thì ngâm mềm, sau đó tiến hành đan theo hình dáng, công năng sản phẩm. Người Hà Nhì đen thường làm quen với nghề đan lát từ khi còn nhỏ. Trẻ em trong bản xem ông, cha, anh trai đan đồ, bắt chước làm theo. Đến khi trưởng thành, họ được người lớn trong bản chỉ dẫn kỹ hơn, rồi tự học hỏi, trau dồi thêm kỹ thuật mới từ những người thợ giỏi trong cộng đồng. Nghề đan lát vì thế không chỉ là kỹ năng sinh tồn, mà còn là quá trình truyền nghề gắn với tinh thần cộng đồng rất rõ nét.

Sản phẩm đan lát của người Hà Nhì đa phần phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày như: gùi, rá, rổ, sọt, mẹt… Tuy nhiên, đặc biệt và tiêu biểu nhất là chiếc mâm ăn cơm truyền thống – gọi là “ba ma no đơ”. Chiếc mâm có hình tròn, đế cao khoảng 20–25cm, mặt mâm hơi võng ở tâm, vành cao lên từ 3–5cm. Nhìn tổng thể, chiếc mâm gợi cảm giác gần giống trống đồng cổ – mang vẻ đẹp truyền thống và trang nghiêm. Mâm không chỉ dùng để ăn cơm mà còn là vật quan trọng trong các nghi lễ cúng của gia đình và cộng đồng, thể hiện chiều sâu văn hóa và tâm linh. Quy trình làm mâm đòi hỏi tay nghề cao: từ việc làm thân bằng nan trúc cứng chắc, đế và miệng mâm được tạo hình bằng dây mây uốn tròn, đan xen nan giang mỏng theo họa tiết hình quả trám. Mỗi bước đều cần độ chính xác và mỹ thuật cao, nên chỉ những người có tuổi, có nhiều kinh nghiệm mới đủ khả năng thực hiện.

Nghề đan lát của người Hà Nhì đen không chỉ tạo ra những sản phẩm hữu dụng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày mà còn chứa đựng trong đó giá trị văn hóa – tinh thần – tâm linh sâu sắc. Dù ngày nay có nhiều sản phẩm công nghiệp hiện đại, tiện dụng hơn, nhưng với người Hà Nhì đen, sản phẩm đan lát thủ công vẫn là lựa chọn ưu tiên – bởi nó là kết quả của sự kết nối truyền thống, biểu tượng của sự bền vững và bản sắc tộc người.

 Phạm Loan- Ban QLDT&PTDL